Ngày 29/11/2024, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán, Luật kế toán, Luật kiểm toán độc lập, Luật ngân sách nhà nước, Luật quản lý, sử dụng tài sản công, Luật quản lý thuế, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật dự trữ quốc gia, Luật xử lý vi phạm hành chính (1 Luật sửa 9 Luật, sau đây gọi là Luật số 56/2024/QH15).
Trong đó, Luật Quản thuế được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điểm, khoản của 14 điều trên tổng số 152 điều của Luật Quản lý thuế hiện hành với những điểm mới cụ thể như sau:
1. Sàn thương mại điện tử nước ngoài đều phải đăng ký, khai thuế tại Việt Nam
Tại điểm a khoản 5 Điều 6 Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 42 Luật Quản lý thuế hiện hành đã bỏ cụm từ “không có cơ sở thường trú tại Việt Nam”.
Theo đó, từ ngày 01/01/2025 nhà cung cấp ở nước ngoài khi hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác tại Việt Nam, không phân biệt có hay không có cơ sở thường trú tại Việt Nam đều phải đăng ký, kê khai, nộp thuế.
2. Sàn giao dịch thương mại điện tử có trách nhiệm khấu trừ, nộp thuế thay cho hộ, cá nhân kinh doanh.
Tại điểm b khoản 5 Điều 6 Luật số 56/2024/QH15 bổ sung khoản 4a vào sau khoản 4 Điều 42 Luật Quản lý thuế hiện hành như sau:
Đồng thời, Điều 10 Luật số 56/2024/QH15 quy định về hiệu lực thi hành như sau:
Theo đó, từ ngày 01/4/2025 tổ chức là nhà quản lý sàn giao dịch thương mại điện tử, nhà quản lý nền tảng số có chức năng thanh toán và các tổ chức có hoạt động kinh tế số khác có trách nhiệm thực hiện khấu trừ, nộp thuế thay, kê khai số thuế đã khấu trừ cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
Trường hợp hộ, cá nhân có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số không thuộc đối tượng được khấu trừ, nộp thuế thay thì có nghĩa vụ trực tiếp đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế.
Hồ sơ, thủ tục khai thuế của các hộ, cá nhân kinh doanh, cách thức và trách nhiệm kê khấu trừ, nộp thuế thay của các sàn thương mại điện tử, nền tảng số sẽ do Chính phủ quy định chi tiết.
Việc bổ sung quy định sàn giao dịch thương mại điện tử có trách nhiệm khấu trừ, nộp thuế thay cho hộ, cá nhân kinh doanh như trên nhằm giảm thủ tục hành chính, tập trung đầu mối kê khai vào các sàn thương mại điện tử thay hàng trăm nghìn hộ kinh doanh và cá nhân, tiết kiệm thời gian và chi phí, phù hợp với đặc thù của hoạt động kinh doanh thương mại điện tử.
3. Người nộp thuế không được khai bổ sung hồ sơ khai thuế khi có quyết định thanh tra, kiểm tra thuế (khoản 6 Điều 6 Luật số 56/2024/QH15)
4. Sửa đổi quy định thời gian tính tiền chậm nộp thuế
Luật Quản lý thuế hiện hành: Điều 59. Xử lý đối với việc chậm nộp tiền thuế 2. Mức tính tiền chậm nộp và thời gian tính tiền chậm nộp được quy định như sau: b) Thời gian tính tiền chậm nộp được tính liên tục kể từ ngày tiếp theo ngày phát sinh tiền chậm nộp quy định tại khoản 1 Điều này đến ngày liền kề trước ngày số tiền nợ thuế, tiền thu hồi hoàn thuế, tiền thuế tăng thêm, tiền thuế ấn định, tiền thuế chậm chuyển đã nộp vào ngân sách nhà nước. |
Luật số 56/2024/QH15: Điều 6. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế 7. Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 2 Điều 59 như sau: “b) Thời gian tính tiền chậm nộp được tính liên tục kể từ ngày tiếp theo ngày cuối cùng của thời hạn nộp thuế, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo hoặc quyết định ấn định thuế hoặc quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế đến ngày liền kề trước ngày số tiền nợ thuế, tiền thu hồi hoàn thuế, tiền thuế tăng thêm, tiền thuế ấn định, tiền thuế chậm chuyển được nộp vào ngân sách nhà nước.”. |
5. Không còn quy định người nộp thuế có quyền yêu cầu cơ quan quản lý thuế trả tiền lãi trong trường hợp số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã nộp lớn hơn số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt được xác định theo quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền hoặc bản án, quyết định của Tòa án (khoản 8 Điều 6 Luật số 56/2024/QH15)
Thay vào đó, quy định quyền được bồi thường thiệt hại của người nộp thuế do cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế gây ra được thực hiện theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
6. Bổ sung đối tượng bị tạm hoãn xuất cảnh do chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế nhằm nâng cao hiệu quả thu nợ và phù hợp với thực tiễn.
Luật số 56/2024/QH15 đã sửa đổi quy định rõ và bổ sung đối tượng bị tạm hoãn xuất cảnh do chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế là cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh, cá nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, chứ không chỉ áp dụng riêng đối với cá nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như quy định tại khoản 7 Điều 124.
Luật Quản lý thuế hiện hành: Điều 66. Hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh 1. Người nộp thuế thuộc trường hợp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh.
|
Luật số 56/2024/QH15: Điều 6. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế 9. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 66 như sau: “1. Cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh, cá nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thuộc trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, cá nhân là người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế đối với số tiền thuế nợ và thời gian nợ theo ngưỡng do Chính phủ quy định thì bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh. Cơ quan quản lý thuế thông báo trước cho người nộp thuế về việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh.”. |
7. Bổ sung thẩm quyền quyết định hoàn thuế cho Chi cục trưởng Chi cục Thuế, Chi cục trưởng Chi cục Thuế khu vực
Luật Quản lý thuế hiện hành: Điều 76. Thẩm quyền quyết định hoàn thuế 1. Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Cục trưởng Cục Thuế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định việc hoàn thuế đối với trường hợp hoàn thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
|
Luật số 56/2024/QH15: Điều 6. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế 11. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 76 như sau: “1. Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Cục trưởng Cục Thuế, Chi cục trưởng Chi cục Thuế, Chi cục trưởng Chi cục Thuế khu vực quyết định việc hoàn thuế đối với trường hợp hoàn thuế theo quy định của pháp luật về thuế.”. |
8. Sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế
Cơ quan thuế chỉ áp dụng biện pháp “Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật” và biện pháp “Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế do cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ” khi có đầy đủ thông tin, điều kiện để thực hiện cưỡng giúp cho cơ quan thuế tập trung nguồn lực vào các đối tượng trọng tâm trọng điểm có khả năng thu hồi nợ, tránh lãng phí thời gian, chi phí, tăng tính linh hoạt trong áp dụng biện pháp cưỡng chế góp phần tăng cường hiệu quả công tác cưỡng chế nợ thuế.
Bên cạnh đó, Luật số 56/2024/QH15 cũng bỏ các quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế mang tính chất định tính như “một số biện pháp”, “không có hiệu quả” khiến cơ quan thuế rất khó xác định và thực hiện. Đồng thời, bổ sung quy định “trường hợp có căn cứ xác định người nộp thuế có tiền thuế nợ có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn thì người có thẩm quyền lựa chọn áp dụng biện pháp cưỡng chế phù hợp để bảo đảm thu kịp thời tiền thuế nợ vào ngân sách nhà nước.”
Với những nội dung sửa đổi Luật Quản lý thuế nêu trên sẽ tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế chính sách, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý thuế, tăng cường trách nhiệm công vụ để đảm bảo công bằng, bình đẳng, minh bạch, thống nhất trong hệ thống văn bản; nhiều điểm mới được bổ sung sẽ giảm bớt thủ tục hành chính, tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế, nâng cao tính tuân thủ và sự hài lòng của người nộp thuế.